Lối sống ảnh hưởng đến bệnh nhồi m.áu cơ tim thế nào?
Nhồi m.áu cơ tim là tình trạng tắc hoàn toàn một hoặc nhiều nhánh động mạch vành – động mạch cung cấp m.áu nuôi tim một cách đột ngột, làm c.hết tế bào cơ tim.
Dù nhồi m.áu cơ tim là bệnh nguy hiểm, nhưng nếu chúng ta biết được các dấu hiệu cảnh báo và đến bệnh viện sớm thi có thể tự cứu mình.
Ai dễ bị nhồi m.áu cơ tim?
Tim cần được cung cấp m.áu và dinh dưỡng liên tục giống như bất kỳ mô cơ nào trong cơ thể. 2 nhánh động mạch vành lớn cung cấp ôxy cho cơ tim. Nếu một trong các động mạch lớn hay các nhánh nhỏ bị tắc đột ngột thì một phần tim sẽ bị thiếu ôxy, tình trạng này gọi là thiếu m.áu cơ tim. Nếu thiếu m.áu cơ tim kéo dài quá lâu, mô cơ tim sẽ bị c.hết, gây nên cơn đau thắt ngực hay được gọi là nhồi m.áu cơ tim.
Nguyên nhân thường gặp nhất của nhồi m.áu cơ tim là xơ vữa động mạch. Tình trạng này xảy ra là do mảng xơ vữa tích tụ dần theo thời gian và bám vào thành mạch m.áu, thành phần cấu thành bao gồm cholesterol, canxi, mảnh vỡ tế bào. Những yếu tố dẫn tới tắc nghẽn động mạch vành bao gồm:
Cholesterol cao: Chế độ ăn nhiều chất béo bão hòa có thể thúc đẩy hình thành mảnh xơ vữa động mạch vành. Những chất béo này có thể làm tắc nghẽn động mạch bằng cách làm tăng lượng cholesterol xấu trong m.áu và làm giảm cholesterol tốt
Tăng huyết áp: Huyết áp bình thường ở người trưởng thành là dưới 120/80mmHg. Huyết áp càng cao thì cang phai đôi diên nhiêu nguy cơ bênh tât. Tăng huyết áp sẽ làm tổn thương động mạch và thúc đẩy hình thành mảng xơ vữa.
Nồng độ triglycerid cao: Đây cũng là nguyên nhân làm tăng nguy cơ nhồi m.áu cơ tim. Triglycerid sẽ đi khắp cơ thể, tới khi được dự trữ trong các tế bào mỡ. Tuy nhiên, một số triglycerid cũng có thể tồn đọng trong động mạch và thúc đẩy hình thành mảng xơ vữa.
Đái tháo đường: Đây là tình trạng gây ra bởi lượng đường trong m.áu cao, làm tổn thương các mạch m.áu và cuối cùng dẫn đến bệnh mạch vành.
Nam giới trên 45 và nữ giới trên 50 tuôi là những người có nguy cơ cao nhồi m.áu cơ tim. Tuy nhiên, kể cả những người trẻ cũng có thể có nhồi m.áu cơ tim nhưng tỷ lệ ít hơn. Những người trước đó đã tưng nhồi m.áu cơ tim thì rất dễ bị lại nhồi m.áu cơ tim lần tới. Những người có t.iền sử gia đình có nhồi m.áu cơ tim sớm như bố hoặc anh trai có nhồi m.áu cơ tim dưới 55 t.uổi và mẹ hoặc chị gái có nhồi m.áu cơ tim dưới 65 t.uổi.
Huyết áp càng cao thì càng đối diện với nguy cơ bệnh tật.
Lối sống ảnh hưởng đến bệnh nhồi m.áu cơ tim
Xã hội phát triển, cuộc sống con người được cải thiện tốt hơn, đầy đủ hơn… Tuy nhiên, một số cách sống không khoa học là yếu tố nguy cơ gây nhồi m.áu cơ tim.
Video đang HOT
Người béo phì: Việc thiếu kiểm soát cân nặng gây thừa cân béo phì là nguyên nhân của nhiều bệnh. Người béo phì có nguy cơ mắc nhồi m.áu cơ tim cao hơn người có cân nặng hợp lý. Béo phì thường liên quan đến các tình trạng khác làm tăng nguy cơ bệnh tim mạch bao gồm: đái tháo đường, tăng huyết áp, tăng cholesterol, tăng triglyceride…
Hút t.huốc l.á: là nguyên nhân làm tăng nguy cơ bệnh mạch vành và có thể dẫn đến các bệnh tim mạch khác.
Uống rượu, bia quá mức (rượu, bia kích thích cơ tim, làm tăng huyết áp và nhịp tim).
Thói quen lười vận động và luôn bị stress cũng là yếu tố nguy cơ cao gây nhồi m.áu cơ tim.
Những dấu hiệu sớm cảnh báo nhồi m.áu cơ tim cấp
Triệu chứng cảnh báo rõ ràng nhất là đau ngực. Cơn đau ngực thường ở giữa xương ức và kéo dài trong một vài phút. Cơn đau có thể xuất hiện rồi hết đi và lại đau lại. Cơn đau làm cho chúng ta cảm thấy như có gì ép lên ngực, đau như dao đ.âm hoặc cảm thấy nghẹt thở.
Cơn đau cũng có thể xuất hiện ở các vị trí khác như ở sau lưng, trên cổ, trên hàm hoặc vùng dưới dạ dày. Khó thở thường xuất hiện đi kèm với cơn đau ngực. Một số triệu chứng khác cũng có thể đi kèm như lạnh toát mồ hôi, nôn hoặc đau đầu nhẹ, lo lắng; ho; chóng mặt; tim đ.ập nhanh.
Trong một số trường hợp, người bệnh có thể không trải qua các triệu chứng như mô tả ở trên mà chỉ cảm thấy hơi mệt hoặc thấy khó chịu vùng thượng vị. Khi có những dấu hiệu như trên, hãy đến bệnh viện gần nhất có thể hoặc đến một bệnh viện có trung tâm tim mạch can thiệp.
Lời khuyên của thầy thuốc
Bệnh nhồi m.áu cơ tim làm giảm chât lượng cuôc sông, ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khỏe người bênh, gây t.ử v.ong nêu không phát hiện để điêu trị kịp thời. Hàng năm trên cả nước có hàng triệu người bị bệnh mạch vành, trong đó khoảng 10% trong số bệnh nhân t.ử v.ong do nhồi m.áu cơ tim.
Vì vậy, để bảo vệ trái tim khỏe mạnh chúng ta cần: ăn uống điều độ, không ăn nhiều chất đạm, chất béo, không hút t.huốc l.á, rượu bia quá nhiều, tránh căng thẳng, stress kéo dài…, đặc biệt cần vận động, tập thể dục hàng ngày để tăng cường thể lực giúp cơ thể trao đôi chất, đề phòng các bênh về tim mạch.
Bệnh loãng xương - nỗi lo âu có thể phòng ngừa
Loãng xương là bệnh lý của hệ thống xương, làm giảm sức mạnh của xương, dẫn đến tăng nguy cơ gãy xương.
Theo báo cáo của Liên đoàn Chống loãng xương thế giới (International Osteoporosis Foundation - IOF), trên toàn cầu hiện có 200 triệu người bị loãng xương, 9 triệu ca gãy xương hàng năm; mỗi 3 giây có một gãy xương mới do loãng xương. Tỷ lệ loãng xương vẫn đang gia tăng ở mọi châu lục, đặc biệt là châu Á, nơi chiếm hơn nửa dân số thế giới.
Một số nghiên cứu gần đây ở các nước phát triển cho thấy, một trong hai đến ba người phụ nữ và một trong bốn đến năm nam giới trên 50 t.uổi sẽ bị gãy xương do loãng xương trong cuộc đời sau này. Hậu quả của gãy xương do loãng xương rất nặng nề, gây đau đớn kéo dài, tàn phế, mất cuộc sống độc lập, gia tăng nguy cơ mắc các bệnh khác và có nguy cơ t.ử v.ong.
Tuy nhiên, các tiến bộ vượt bậc trong lĩnh vực loãng xương đã giúp chẩn đoán, đ.ánh giá nguy cơ và phát triển các thuốc điều trị làm gia tăng sức mạnh của xương, giảm nguy cơ gãy xương. Với các bằng chứng lâm sàng, giá cả không quá cao... đa số các thuốc điều trị loãng xương từ đường uống đến tiêm truyền đều được chứng minh hiệu quả và đáng tin cậy, mang lại lợi ích cho số đông người bệnh khi tuân thủ các liệu trình điều trị thích hợp.
Mối nguy hiểm âm thầm
Loãng xương diễn tiến âm thầm, kéo dài và ngày càng nặng nề. Hậu quả nghiêm trọng nhất của loãng xương là gãy xương. Gãy xương là một gánh nặng về kinh tế xã hội rất lớn cho mọi quốc gia, đặc biệt ở nước ta. Chi phí lớn nhất cho bệnh loãng xương hiện nay vẫn là để điều trị gãy xương, đặc biệt gãy cổ xương đùi. Chỉ tính riêng các chi phí điều trị cho các vấn đề liên quan đến biến chứng gãy xương đã đưa loãng xương trở thành một trong những bệnh mạn tính tiêu tốn nhiều t.iền nhất.
Theo tính toán, một ca gãy xương đùi nhập viện điều trị tiêu tốn trung bình khoảng 33,5 triệu đồng cho chi phí y tế trực tiếp điều trị nội trú; một ca gãy cột sống là 52,6 triệu đồng. Dựa vào tỷ lệ gãy xương ở các nước láng giềng như Thái Lan, ước tính mỗi năm Việt Nam có khoảng 60.900 ca gãy xương đùi và 44.000 ca gãy xương cột sống, với tổng chi phí ước tính là 4.354.900 triệu đồng (tức 218 triệu USD). Trong khi, nếu tầm soát loãng xương và điều trị sớm ở độ t.uổi 60 - 70, chỉ tiêu tốn khoảng 6 triệu đồng/năm, thậm chí còn được bảo hiểm y tế chi trả.
Hơn thế nữa, người bị gãy xương do loãng xương có nguy cơ t.ử v.ong cao, gia tăng nguy cơ mắc các bệnh khác. Gần 25% bệnh nhân bị gãy xương đùi sẽ t.ử v.ong trong vòng 12 tháng sau biến cố gãy xương. Vì vậy, biến cố gãy xương do loãng xương được coi là nặng nề tương đương với đột quỵ trong tăng huyết áp và nhồi m.áu cơ tim trong bệnh mạch vành tim.
Cùng với việc gia tăng t.uổi thọ và sự thay đổi lối sống, từ hai thập niên gần đây, loãng xương trở thành vấn đề y tế cộng đồng, một bệnh mạn tính cần được phòng ngừa, chẩn đoán, điều trị và theo dõi một cách hệ thống giống một số bệnh mạn tính quan trọng khác như: tăng huyết áp, đái tháo đường, rối loạn lipid m.áu, thiếu m.áu cơ tim cục bộ...
Gãy xương do loãng xương có thể xảy ra sau té ngã, thậm chí sau những va chạm nhẹ trong những hoạt động hàng ngày. Gãy xương làm người bệnh đau đớn, mất khả năng vận động, mất khả năng sinh hoạt tối thiểu, tàn phế, phải sống phụ thuộc và gia tăng nguy cơ t.ử v.ong. Chính vì vậy, việc phòng ngừa, phát hiện và điều trị sớm để ngăn ngừa bệnh loãng xương, ngăn ngừa nguy cơ gãy xương có vai trò cực kỳ quan trọng.
Các thuốc điều trị loãng xương đã chứng minh trên thực tế lâm sàng, làm giảm tới 40% nguy cơ gãy xương vùng hông, tới 70% nguy cơ gãy xương đốt sống... nếu bệnh nhân tuân thủ điều trị của bác sĩ.
Trong một nghiên cứu trên 1.000 phụ nữ dùng thuốc điều trị loãng xương trong 3 năm, kết quả phòng ngừa được 100 trường hợp gãy xương (gãy đốt sống và gãy ngoài đốt sống). So sánh với một nghiên cứu về điều trị bệnh mạch vành bằng nhóm thuốc đặc trị trên 1.000 người trong 5 năm, kết quả chỉ phòng ngừa được 18 trường hợp biến cố tim mạch.
Các thử nghiệm lâm sàng với thuốc cho thấy mức độ an toàn khá cao khi dùng kéo dài trên 3 năm, 5 năm, 10 năm. Đặc biệt, các bệnh nhân cao t.uổi, có nguy cơ gãy xương cao, việc duy trì điều trị kéo dài hết sức cần thiết vì nhiều lợi ích hơn nguy cơ.
Đừng "lãng quên" căn bệnh loãng xương
Nhiều người cho rằng đến hẹn lại lên, xương rồi sẽ "loãng" khi chúng ta về già. Đó là một trong những quan niệm vô cùng sai lầm. Một khủng hoảng trong chuyên ngành loãng xương ở một số nơi, bệnh loãng xương đã bị "bỏ quên", không đủ các chương trình phòng chống loãng xương trong cộng đồng. Không đầu tư trang thiết bị đủ để chẩn đoán bệnh và bệnh không được dự đoán, dự phòng; không được điều trị. Thậm chí nhiều bệnh nhân đã bị gãy xương, nhưng vẫn không được tư vấn điều trị và theo dõi lâu dài.
Trong những năm qua, ngành loãng xương đã có nhiều tiến bộ, giúp chúng ta hiểu nhiều hơn về quá trình phát triển của xương, tiến trình dẫn đến loãng xương, ảnh hưởng của t.uổi tác, các yếu tố nguy cơ, các cơ sở khoa học để đ.ánh giá sức mạnh của xương... Qua đó bác sĩ cơ xương khớp có thể tiên lượng nguy cơ gãy xương cho từng cá thể, các vấn đề liên quan đến chẩn đoán, điều trị và phòng ngừa.
Bệnh loãng xương tuy gia tăng, ảnh hưởng nặng nề đến sức khỏe con người, nhưng có thể phòng ngừa, chẩn đoán sớm, để có các biện pháp hữu hiệu nhằm giảm tối đa nguy cơ gãy xương và biến chứng của bệnh.
Kiến thức của cộng đồng về diễn tiến bệnh, yếu tố nguy cơ, phòng bệnh, chẩn đoán và điều trị bệnh lý này vẫn chưa được phổ biến rộng rãi. Mặc dù đã có những giải pháp tích cực, hiệu quả, an toàn và khả thi nhưng các giải pháp này còn chưa được thực hiện một cách nghiêm túc.
Phòng bệnh
Sự thay đổi lối sống kiểu công nghiệp, lười vận động. Lạm dụng thức ăn, đồ uống chế biến sẵn, xa rời thiên nhiên,... Bệnh loãng xương đang có xu hướng trẻ hóa, đang gần như bị "bỏ quên". Chưa có đủ các chương trình tuyên truyền phòng ngừa loãng xương một cách rộng rãi, thường xuyên trong cộng đồng.
Chẩn đoán
Do quá nhiều mối quan tâm, nhiều người đã không biết cơ thể mình có thay đổi gì, sức khỏe ra sao, những yếu tố nguy cơ của bản thân và gia đình... mà chỉ đi khám bệnh khi đã trễ... Nhiều cơ sở y tế không đầu tư trang bị cho chẩn đoán bệnh, một số bác sĩ khi khám bệnh, cũng không chú ý đến bệnh. Và bệnh loãng xương thường không được chẩn đoán.
Điều trị
Cũng như nhiều bệnh mạn tính khác, bệnh loãng xương đòi hỏi được chẩn đoán xác định và điều trị lâu dài. Nghiêm túc tuân thủ chỉ định của bác sĩ về thuốc cùng các điều trị hỗ trợ là cách tốt nhất để giảm thiểu các hậu quả nặng nề liên quan đến gãy xương.
Hiện thuốc điều trị loãng xương đã có những tiến bộ mang tính đột phá, mang lại hiệu quả cao, giúp người bệnh dễ dàng tuân thủ điều trị. Tuy nhiên, nhiều bệnh nhân vẫn chưa được chẩn đoán, chưa được dùng thuốc, từ chối dùng thuốc hay bỏ thuốc giữa chừng.
Phòng ngừa bệnh loãng xương
Các tiến bộ vượt bậc trong lĩnh vực loãng xương ngày nay đã giúp việc chẩn đoán, điều trị, tiên lượng, quản lý bệnh nhân loãng xương có hiệu quả. Tăng cường năng lực điều trị, giảm nguy cơ gãy xương, nâng cao chất lượng sống cho người bệnh
Phòng ngừa loãng xương cần duy trì một chế độ ăn uống, vận động hợp lý trong suốt cuộc đời, ngay từ thời thơ ấu. Ở những người mắc bệnh loãng xương, các nỗ lực để ngăn ngừa gãy xương bao gồm chế độ ăn uống hợp lý, tập thể dục thường xuyên, phòng ngừa té ngã, thay đổi lối sống (ngừng hút thuốc, hạn chế rượu, bia...) kết hợp với thuốc điều trị loãng xương theo chỉ định của thầy thuốc.
Bisphosphonates là một nhóm thuốc rất quan trọng trong điều trị loãng xương hiện nay, là chọn lựa đầu tiên của các bác sĩ cho đa số bệnh nhân loãng xương. Bisphosphonates có đường uống hàng tuần, hàng ngày, đường chích tĩnh mạch hàng quý, đặc biệt có dạng truyền tĩnh mạch hàng năm.
Sự cải tiến về đường dùng, khả dụng sinh học của thuốc cũng như liều dùng hàng năm đã giúp tăng sự tuân thủ và gia tăng hiệu quả điều trị. Thuốc cũng đặc biệt hữu hiệu để ngăn ngừa tái gãy xương trên những bệnh nhân đã bị gãy xương do loãng xương trước đó.
Dư thừa chất béo, uống nhiều rượu bia làm tăng cholesterol Chế độ dinh dưỡng dư thừa chất béo và lối sống ít vận động dẫn đến gia tăng cholesterol là nguyên nhân của nhiều bệnh gây hại sức khỏe, tính mạng như nhồi m.áu cơ tim, nhồi m.áu não. Bác sĩ CKII Lưu Ngọc Trân kiểm tra diễn tiến sức khỏe người bệnh điều trị tại khoa. Bác sĩ CKII Lưu Ngọc Trân,...